“Văn chương thiên cổ sự, đắc thất thốn tâm tri”

Một nhà văn giỏi không thể chỉ nói đến kỹ xảo mà bỏ qua việc tu dưỡng đạo đức; phải có nhân phẩm chân thành, tấm lòng rộng mở cùng phẩm chất cao thượng thì mới viết ra được những áng thơ văn hay.
“Văn chương thiên cổ sự, đắc thất thốn tâm tri” là câu danh ngôn do thi thánh Đỗ Phủ viết ra. Mười chữ ngắn gọn, súc tích nhưng nội hàm sâu xa.
- Dù có hiếu thảo đến đâu, cũng tuyệt đối không nên làm 3 điều này
- Thực phẩm “năng lượng âm” giúp ăn càng nhiều càng gầy
- Buông bỏ tâm oán hận, hơn 90% cảm xúc tiêu cực đã biến mất
Từ xưa đến nay, những văn nhân, tác gia có trách nhiệm đều coi đây là lời răn dạy để ghi khắc trong lòng. Bởi vì “văn dĩ tải đạo”, viết văn là để chuyên chở đạo lý, để bày tỏ tư tưởng của tác giả; cho nên văn chương là sự nghiệp muôn đời, ảnh hưởng sâu xa. Một nhà văn chân chính phải hiểu rõ được mất trong việc sáng tác, xem việc viết văn như một đại sự mở ra trí tuệ nhân loại.
Câu này xuất phát từ bài “Ngẫu đề” của Đỗ Phủ đời Đường, nghĩa là: văn chương là sự nghiệp muôn đời lưu truyền, còn nỗi gian nan, được mất thì chỉ có người viết mới hiểu rõ trong lòng.
Nguyên tác bài thơ khá dài. Trong đó, Đỗ Phủ bộc lộ quan điểm về sáng tác thơ ca lúc cuối đời, có thể xem là một kiệt tác mang tính khái quát. Câu “thiên cổ sự” nghĩa là sự việc lâu dài, trọng đại, tương ứng với lời Tào Phi thời Tam Quốc:
“Văn chương kinh quốc chi đại nghiệp, bất hủ chi thịnh sự” (Văn chương là sự nghiệp lớn để trị quốc, là sự nghiệp huy hoàng bất diệt). Còn “thốn tâm tri” là nói rằng với văn chương, chính tác giả mới là người hiểu rõ nhất. Hai câu này tuy thuộc loại nghị luận nhưng đối ngẫu chỉnh tề, ngôn từ cô đọng, ý nghĩa sâu sắc đầy tính triết lý.
Tôi không phải là nhà văn chuyên nghiệp, cũng chẳng phải nghệ sĩ. Nhưng từ khi bước trên con đường viết lách, tôi thường chăm chú quan sát những chi tiết của đời sống, rồi dốc lòng ghi lại những cảm ngộ chợt lóe sáng trong tâm hồn.
Văn chương là một khái niệm rộng lớn, bao gồm thơ, từ, ca, phú, thư, biểu, sách, luận… Nội dung vô cùng phong phú: có thể chuyên chở đạo lý, bày tỏ tình cảm, luận lý, hoặc phác họa ý cảnh. Viết được bài văn hay chính là biểu hiện của một bản lĩnh; mà trong mấy nghìn năm qua, số người viết được văn chương bất hủ cũng hiếm hoi.
Hàn Dũ đời Tống từng nói: “Sư giả, truyền đạo, thụ nghiệp, giải hoặc dã” (Người thầy là để truyền đạo, dạy nghề, giải nghi). Văn chương cũng vậy. Một tác phẩm hay có thể khai mở trí tuệ, giúp con người có tư tưởng đúng đắn, nhận thức đúng đắn, hình thành mục tiêu nhân sinh chính đáng, nhờ trí tuệ khéo léo mà giải quyết khó khăn trong đời.
Một bài văn phải có quan điểm riêng, phải giảng rõ đạo lý. Lý lẽ là để sáng tỏ đạo, khiến người đọc chấp nhận quan điểm; đồng thời cũng phải có tình cảm, để lôi cuốn người đọc, khiến họ cảm nhận được cái đẹp. “Kỳ văn cộng hân thưởng, nghi ý tương dữ tích” chính là cảnh giới đó.
Dù là làm văn hay làm thơ, đều phải hết lòng hết sức. Cái vui trong văn chương thi phú thực chất là lạc thú trong gian khổ; nhiều văn nhân cổ xưa từng bày tỏ nỗi niềm ấy. Một câu hay, một từ đẹp vô cùng quý giá, tuy ở đâu cũng có, lúc nào cũng hiện hữu, nhưng đôi khi khó mà nắm bắt: khi thì như hoa quỳnh thoáng nở, khi thì như ánh nước chập chờn; lúc xa vời vợi, lúc lướt ngang qua.
“Văn chương bổn thiên thành, diệu thủ ngẫu đắc chi”, văn chương vốn do trời thành, chỉ có bàn tay khéo léo mới ngẫu nhiên nắm bắt được. Do vậy, một nhà văn chân chính không thể chỉ dựa vào kỹ xảo mà quên tu dưỡng đạo đức; phải có nhân phẩm chân thành, tấm lòng rộng mở và phẩm hạnh cao quý thì mới có thể viết nên những áng văn chương tuyệt diệu.
Mỹ Mỹ biên dịch
Trích Trí tuệ cuộc sống
Bạn nghĩ thế nào về bài viết này






