Vị sư ở An Giang ‘chết đi sống lại’, 31 tuổi chỉ cao 1m45, nặng 28kg
Sau 2 lần chết đi sống lại, nhà sư Chau Soc Thonl (31 tuổi, tu hành tại chùa Tà Pạ xã Núi Tô, H.Tri Tôn, An Giang) ngừng phát triển chiều cao và trông trẻ như một học sinh cấp 2. Hai lần chết đi sống lại Chùa Tà Pạ (còn được gọi với tên […]
Sau 2 lần chết đi sống lại, nhà sư Chau Soc Thonl (31 tuổi, tu hành tại chùa Tà Pạ xã Núi Tô, H.Tri Tôn, An Giang) ngừng phát triển chiều cao và trông trẻ như một học sinh cấp 2.
Hai lần chết đi sống lại
Chùa Tà Pạ (còn được gọi với tên Chùa Chưn-Num theo tiếng Khmer) nằm ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Trong đó, có một vị sư tên là Chau Thoc Sol.
Ông kể: “Năm 4 tuổi, tôi bị bệnh rất nặng được cha mẹ đưa vào bệnh viện. Bác sĩ nói rằng tôi không qua khỏi, trả tôi về để gia đình lo hậu sự. Cha đã bọc tôi trong một chiếc chiếu, đào đất chuẩn bị đem chôn, người cuối cùng ôm tôi trên tay là ông nội. Bất ngờ, tôi bỗng nhiên tỉnh lại khiến cả nhà vô cùng sửng sốt, vỡ òa.
Năm 18 tuổi, khi đang theo học trường THPT Nguyễn Trung Trực (huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang), tôi đột nhiên đau bụng dữ dội được chuyển đi mổ ruột thừa. Sau ca phẫu thuật, tôi ngất xỉu vì cơ thể quá yếu ớt. Tại phòng cấp cứu, nhịp tim tôi ngừng khiến cha mẹ như chết lặng. Mẹ tôi tất tả đi chuẩn bị giấy tờ lo hậu sự, còn cha thì gọi xe.
Khi vừa mở cửa phòng để chuẩn bị đem xác về, máy đo nhịp tim bỗng dưng hoạt động trở lại. Tôi được hồi sinh một lần nữa, cha mẹ tôi đã khóc rất nhiều. Trước đó, cả hai đã nguyện rằng hãy cho tôi được sống lại. Năm 20 tuổi, cha mẹ sẽ gửi tôi vào chùa tu”.
Hơn 10 năm qua Sư vẫn âm thầm gánh đá xây chùa, dạy chữ cho các trẻ em Khmer. Thậm chí, có người đã 20 tuổi vẫn có thể ngồi trong lớp. Sư duy trì lớp học này được 4-5 năm. “Ngày còn nhỏ, tôi cũng được học chữ từ một sư cô nên muốn giúp đỡ lại các em”. Sư nói.
Sau hai lần chết đi sống lại, nhà Sư đã lớn lên trong hình hài của trẻ con. Ở tuổi 31, Sư vẫn cao 1 mét 30, nặng 28 kg.
Theo chia sẻ của Sư Chau Thoc Sol, phụng sự việc nhà chùa chính là cách để trả hiếu cho mẹ cha, tạ ơn Đức Phật.
Một phụ nữ “chết đuối” được Thiên sứ báo tin: Bạn đến quá sớm
Laurie một phụ nữ Mỹ chia sẻ trải nghiệm cận tử của mình vào năm 1986 trên trang web của Tổ chức Nghiên cứu Trải nghiệm Cận tử (Near Death Experience Research Foundation).
Laurie viết rằng, vào tháng 5 năm đó, cô cùng các đồng nghiệp của mình đã chèo đò trên sông Rogue ở Oregon. Năm đó mực nước cao hơn những năm trước, dòng chảy cũng xiết hơn.
Mặc dù đã mặc áo phao, nhưng cô vẫn bị dòng nước mạnh cuốn xuống dưới đáy sông. Cô không chỉ hít nước sông vào phổi mà còn bị lạc phương hướng trong nước. Mặc dù Laurie có thể nhìn thấy bầu trời phía trên, nhưng cô không cách nào ngoi lên mặt sông để thở. Trong tình huống thiếu dưỡng khí, cô cảm thấy mình càng lúc càng yếu đi, cuối cùng không còn sức vùng vẫy nữa.
Laurie cho biết cô đột nhiên không còn cảm thụ được cơn đau rát do nước tràn vào phổi. Khung cảnh xung quanh bắt đầu chuyển từ đen sang trắng, cô cảm giác như mình đang đi xuyên qua một đường hầm với tốc độ ánh sáng. Khi nỗi thống khổ xa rời cô, Laurie cảm thụ sự ấm áp và bình yên.
Cô đề cập rằng khi rời khỏi đường hầm, cô nhìn thấy một căn phòng dường như do những đám mây trắng tạo thành, bên trong có ba sinh mệnh được hình thành từ những viên pha lê sáng chói. Ánh sáng xuyên thấu họ phát xạ cầu vồng, trông giống như lăng kính thủy tinh, cô hiểu rằng họ chính là Thiên sứ. Tất cả họ đều dùng phương thức cảm ứng tâm linh để nói chuyện với cô. Họ có thể đọc được suy nghĩ của cô. Khi nhìn vào mắt họ, cô cảm nhận được tình yêu thương tỏa ra trong mắt họ.
Thiên sứ nói với cô: “Bạn đến quá sớm. Còn chưa đến lúc bạn nên đến đây. Bạn phải quay lại để hoàn thành công việc của mình trên Trái đất. Nhưng vì bạn đã ở đây, chúng tôi sẽ cho bạn xem một số thứ.”
Laurie nói rằng thiên sứ đó tay đang cầm một cuốn sách lớn, nhưng các trang sách chứa hình ảnh chứ không phải văn tự. Cô nhìn thấy những cảnh tượng trong cuộc đời mình, từ khi trong bụng mẹ cho đến lúc cô rơi xuống sông khi đang đi bè. Các trang được lật rất nhanh, nó giống như đang chiếu một bộ phim. Cô lập tức nghĩ đến hết thảy những sự tình cô đã làm vì người khác, cả những điều cô chưa làm được. Cô cũng nhìn thấy một người đàn ông mà cô không biết mặt, và nhiều đứa trẻ còn chưa chào đời.
Sau đó, một thiên sứ nhỏ hơn nói với Laurie: “Tôi là Yahshael. Tôi từ thời viễn cổ đã luôn ở bên bạn, tôi sẽ theo bạn vĩnh viễn. Bạn phải quay lại, bạn phải quay lại vì họ. Tôi sẽ cho bạn thấy những gì bạn mong đợi, cho đến thời khắc bạn phải quay trở lại cơ thể của mình.”
Nói thì chậm, nhưng làm thì nhanh. Yahshael và Laurie đã dịch chuyển tức thời đến một cánh đồng màu vàng khổng lồ. Cô nghe thấy bản nhạc mĩ diệu nhất, cảm thụ nó di chuyển xuyên qua cô. Khi Yahshael và Laurie bay ngang qua thảo nguyên màu vàng cô nhìn thấy một cây đại thụ khổng lồ với rất nhiều lá vàng. Bên cạnh cái cây đó có một hồ nước, nước trong đó có ánh quang như thủy ngân lỏng, nhưng khi bạn nhìn thấu qua nó, bạn sẽ thấy mọi người trên Trái Đất.
Yahshael sau đó nói với cô: “Bạn nên quay trở lại Trái Đất. Bạn phải hoàn thành công việc của mình trước đã.” Ngay khi nói xong, thiên sứ dùng lực đẩy linh hồn Laurie hồi trở lại cơ thể. Cô đột nhiên cảm thấy bị mắc kẹt trong nước, cơn đau rát ở ngực đã quay trở lại. Không lâu sau đó, cô được cứu trở lại bè.
Laurie cuối cùng nói, nhờ lần trải nghiệm cận tử này, cô càng tin tưởng Thượng Đế hơn, và học được rằng sinh mệnh là một chuỗi các lựa chọn. Lựa chọn của bản thân sẽ ảnh hưởng đến những người xung quanh, bởi vì tất cả chúng ta đều có quan hệ liên đới lẫn nhau.
Sống chết do Trời, vận mệnh con người vốn đã được an bài từ trước
Trong kinh điển của Nho gia Luận Ngữ – Nhan Uyên có ghi lại một câu: “Sinh tử hữu mệnh, phú quý tại thiên (Tạm dịch: sống chết có số, phú quý do trời). Cổ nhân cũng thường nói: “Mệnh lý hữu thời chung tất hữu, mệnh lý vô thời mạc cưỡng cầu” (Tạm dịch: Trong số mệnh có thì cuối cùng cũng sẽ có, trong mệnh không có thì đừng mong cầu). Hai câu nói nổi tiếng được người xưa truyền lại này đang thức tỉnh thế nhân rằng: mọi thứ trong đời, bao gồm sinh tử, phú quý, công danh, vận mệnh vốn đã được định sẵn.
Con người thường quan tâm đến những điều chưa biết, đặc biệt với những chủ đề liên quan đến tương lai, vận mệnh của chính họ. Ngay từ hàng ngàn năm trước, con người đã bắt đầu nghiên cứu những thông tin này thông qua các phương pháp như bói toán, xem tướng, xem chỉ tay hay bằng các lá bài tarot.
Với các phương pháp này có không ít người cho rằng điều bói ra cũng khá là đúng. Nếu sự việc ấy thật đúng vậy minh chứng rằng con đường đời của người ta quả thật đã được thể hiện trên thân thể người đó thông qua chỉ tay, tướng mặt, hay thông qua hành một động cụ thể… Nhưng vì sao có những người lại không thể xem trúng chính xác hay có khi nhìn không ra?
Nhiều người khi đã biết trước số mệnh rằng không thể giàu có nhưng vẫn cố gắng phấn đấu cho bản thân phải được giàu có, được danh tiếng,… thì khi đó họ sẽ bất chấp mọi thứ để đạt được cái họ muốn bằng mọi giá. Như vậy chẳng phải đã tạo ra những hành vi xấu, ý nghĩ xấu, vốn không có nhưng muốn đoạt lấy thứ của người khác thông qua thủ đoạn. Vậy sẽ khiến người kia trong mệnh có lại bị cướp mất. Người bị mất sẽ phải chịu thống khổ, chịu thiệt thòi. Người giành được thì vui sướng. Trong Phật Giáo gọi là tạo nghiệp, một khi tạo nghiệp sẽ mất đức, tổn đức. Người già xưa hay bảo với con cháu rằng hãy tích đức cùng câu nói “có Đức mặc sức mà ăn”, dưới sự ảnh hưởng nhân quả trong tôn giáo cộng với kinh nghiệm của ông cha ta đúc kết mà thành.
Vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, một người đàn ông đã đau đáu nhìn vào giáo thuyết Hindu giáo về những kiếp đầu thai vô tận. Ngài tự hỏi điều gì đã trói buộc linh hồn vào bánh xe luân hồi đó, tên ngài là Siddhartha Gautama (Tất – đạt – đa Cồ – đàm), chào đời khoảng năm 580 TCN, xuất thân từ hàng Sát đế ly, đẳng cấp của những vị vua chúa và những chiến binh, vùng Đông Bắc Ấn.
Siddhartha đã chứng kiến nỗi đau của bệnh tật, tuổi già với cái chết. Ngài tự hỏi: “Điều gì khiến nguyên nhân của mọi đau khổ này?”. Ông đã học kinh Vệ Đà nhưng tất cả những gì kinh dó nói là quy luật của cuộc đời, chính NGHIỆP BÁO.
Sau đó, Ngài nhận ra nguyên nhân của khổ đau của con người chính là HAM MUỐN. Đàn ông đàn bà không bao giờ bằng lòng với những gì mình có, chẳng bao giờ bình an. Họ thèm khát cái họ không có. Rồi ngay khi có được điều họ từng ham muốn, một cơn thèm khát nữa lại thế chỗ. Ham muốn giống như một căn bệnh đày đọa mọi người sinh ra trên đời không ai thoát khỏi sự cưỡng bách của nó.
Ngài nhận ra chính ham muốn loại bỏ ham muốn là vật cản ngăn ngài đến giác ngộ. Ngài chứng ngộ rằng “Không còn đầu thai; ta đã sống ở cảnh giới cao nhất; nhiệm vụ ta đã xong; với ta; giờ không còn gì hơn những thứ ta đã đạt được”. Vòng quay của luân hồi chuyển kiếp đã kết thúc với Ông và Ông đã trở thành Đức Phật.
Câu phú: “CÓ ĐỨC MẶC SỨC MÀ ĂN” thật sự khuyên con người hãy làm những điều thiện, mọi thứ tốt đẹp sẽ đến.
Xã hội rất nhiều điều giả dối lên ngôi, từ đạo đức giả đến trí thức giả, hàng giả, thực phẩm bẩn, đánh người, mắng người, thậm chí giết người cướp của, bán ma túy… chính vì những người này họ không biết xem trọng Đức, họ chỉ xem trọng tiền tài nên đã tạo rất nhiều nghiệp trên thân mà không cảm nhận được. Khi báo ứng đến thân họ như bệnh tật, chịu khổ vì thiên tai…cũng cho đó rằng lỗi tại Ông Trời bất công, oán trách Thần Phật không thương xót họ. Thật ra mọi nỗi khổ của con người đều bắt đầu từ Nghiệp.
Vậy nên cuộc sống chính như chuỗi sự kiện xảy ra thuận theo nhân quả, cuộc sống của bạn phải do bạn lựa chọn lấy. Bạn chọn hành ác để nhận nghiệp quả hay chọn thiện lương để phúc báo?!
Mỹ Mỹ (Tổng hợp)
Bạn nghĩ thế nào về bài viết này